Sự kiện nhằm hỗ trợ doanh nghiệp cập nhật thông tin thị trường, phòng ngừa rủi ro pháp lý phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp, khôi phục lại hoạt động kinh doanh sau dịch Covid-19.
Ông Châu Việt Bắc Phó Tổng Thư ký Trung tâm Trọng tài Quốc tế VN (VIAC)
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo, bà Cao Thị Phi Vân Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TPHCM và ông Châu Việt Bắc Phó Tổng Thư ký Trung tâm Trọng tài Quốc tế VN (VIAC) cùng chia sẻ với DN về những khó khăn trong thời gian dài bởi dịch bệnh hoành hành.
Có thể thấy Đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng trên toàn cầu đã và đang tác động sâu rộng đến toàn bộ đời sống xã hội và sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp trong nước và quốc tế. Điều này cũng dẫn đến xảy ra tình trạng gia tăng tranh chấp giữa các doanh nghiệp có mối quan hệ làm ăn với nhau.
Tranh chấp phổ biến có thể xảy ra do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, đó là tranh chấp về hợp đồng thuê mặt bằng, hợp đồng mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, phổ biến nhất là đặt phòng khách sạn, tổ chức tour du lịch; hợp đồng lao động…
Các tranh chấp do các bên gặp khó khăn hiện tại hoặc dự kiến về lưu chuyển tiền tệ, suy giảm đáng kể hoặc mất khả năng chi trả do cách ly, giãn cách xã hội.
Ngoài ra, theo luật sư Lương Văn Lý, Cố vấn cao cấp Global Lawyers, trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), còn có các trường hợp tranh chấp xảy ra do sự cố đột xuất, không lường trước, hậu quả nghiêm trọng, không xác định được thời gian phục hồi
Ông Lý thông tin, với các loại tranh chấp nêu trên, sẽ gặp một số vướng mắc trong giải quyết đối với doanh nghiệp như là hoãn thực hiện, điều chỉnh hay hủy hợp đồng; nếu giải quyết thì sẽ căn cứ trên cơ sở quy định nào của pháp luật cho phù hợp; tranh chấp đó có được áp dụng điều khoản “bất khả kháng” hay chỉ là “hoàn cảnh thay đổi cơ bản”.
Ông Lý khuyên các doanh nghiệp nên tìm hiểu kỹ xem nội dung về điều kiện “bất khả kháng” trong hợp đồng có quy định trường hợp dịch bệnh cụ thể hay không. Nếu là “hoàn cảnh thay đổi cơ bản”, doanh nghiệp cần cân nhắc đưa tranh chấp ra tòa án giải quyết vì chỉ có tòa án mới có thẩm quyền quyết định biện pháp khắc phục.
Tuy nhiên, ông Lý cũng lưu ý các doanh nghiệp xem xét về thời điểm khởi kiện và nơi tiến hành khởi kiện (tòa án hay trọng tài), phương thức hòa giải cũng nên được quan tâm xem xét thấu đáo, đảm bảo lợi ích các bên và tránh mất thời gian, chi phí cho doanh nghiệp.
Luật sư Lương Văn Lý cũng cung cấp cho các doanh nghiệp tham dự buổi hội thảo trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp tại tòa và trọng tài. Qua đó doanh nghiệp có thể phân biệt được sự khác nhau giữa hai hình thức giải quyết để đưa ra lựa chọn phù hợp.
Tuy nhiên, ông Lý cũng lưu ý, trong quá trình xảy ra dịch Covid-19 cũng có nhiều trường hợp, trong hợp đồng doanh nghiệp lại không có đề cập trường hợp bất khả kháng hoặc có đưa vào nhưng không có nêu chi tiết cụ thể những trường hợp nào là “bất khả kháng”.
Trong khi đó, pháp luật hiện hành về trường hợp “bất khả kháng” quy định chỉ mang tính chung chung, không cụ thể. Do vậy, nếu dựa vào quy định chung này của pháp luật thì phía đối tác có thể sẽ không chấp nhận.
Do đó, ông Lý khuyên các doanh nghiệp cần phải đưa điều kiện bất khả kháng vào hợp đồng làm ăn (dù lớn hoặc bé), nhất là đối với các hợp đồng thực hiện trong thời gian dài hạn (từ 6 tháng trở lên).
Và trong điều kiện bất khả kháng này, theo ông Lý doanh nghiệp cần phải nêu chi tiết và cụ thể những trường hợp nào là thuộc phạm phi áp dụng bất khả kháng, như thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh,…
Trong khi đó, Luật sư Lê Thành Kính – Giám đốc Công ty Luật TNHH Lê Nguyễn – Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) nêu lên một số điểm cần lưu ý cho doanh nghiệp khi tiếp tục hợp đồng với đối tác cũ và thiết lập hợp đồng với đối tác mới. Theo ông Kính, doanh nghiệp nên tìm kiếm các đối tác mới trong tương lai thay vì phụ thuộc vào một vài khách hàng nước ngoài lớn, đồng thời tiến hành rà soát tình trạng pháp lý hiện tại của doanh nghiệp đối tác.
Ông Kính cũng lưu ý các doanh nghiệp trong trường hợp các đối tác có đơn hàng lớn, quan hệ thương mại lâu dài, thì việc đưa vụ việc thành một tranh chấp pháp lý hay hủy hợp đồng ở giai đoạn này có lẽ là quá sớm, ngoại trừ những vụ việc mà doanh nghiệp nước ngoài là bên mua và đã xác định rõ là mất khả năng chi trả và phá sản hay có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Trong trường hợp bắt buộc phải hủy hợp đồng thì cần thiết phải vận dụng và viện dẫn các điều khoản bất khả kháng trong thương mại quốc tế một cách chuẩn xác để tránh rủi ro không đáng có.
PV